Ngan có đầu to, trán dẹt có nhiều lông; mào phát triển tốt, mào đỏ đẹp. Con đực có màu nhạt hơn; cổ ngắn, thân dài, lưng rộng, ngực nở; cánh phát triển tốt, chân ngắn và dáng đi nặng nề hơn. Giống này có nhiều dòng với màu lông khác nhau, bao gồm xiêm trắng, xiêm đen; xiêm xám. Người nuôi thường chọn nuôi chúng màu đen vì thiên nga trắng có sức đề kháng cao hơn, chúng bám đất tốt, ăn tạp và có thể ăn nhiều chất xơ.
Ngan hung dữ hơn các loại gia cầm khác nên thích hợp để vỗ béo. Chúng dễ nuôi, mau lớn; thịt ngon và cơ nạc màu đỏ. Nói chung, con đực hung dữ hơn con cái. Ngan bước đi chậm rãi; gật gù theo nhịp bước đi. Vì vậy, anh ta có thể dễ dàng được phân biệt với một con vịt ở phía xa. Tính hợp đàn kém các loại vịt khác. Do ngan nội có tính đòi ấp cao nên sản lượng trứng rất thấp. Ngan dé hay vịt dé là loại ngan vịt bé hơn so với vịt ngan nuôi cám công nghiệp; thịt chắc hơn. Để chăn nuôi trang trại ngan đen bà còn cần chuẩn bị và lưu ý đến các vấn đề sau:
chuồng nuôi Ngan Đen: chuồng nuôi, dụng cụ phải rửa sạch sẽ. Chuồng trước khi nuôi 15 – 20 ngày xử lý theo qui trình vệ sinh thú y. Bà con cần thực hiện quét vôi đặc 40%. Khử trùng bằng formol 3% từ 2 – 3 lần. Trước khi xuống Ngan con 1 – 2 ngày; phun khử trùng lần cuối cùng. Lưu ý (đóng kính cửa để phun sau 5h mới mở ra).
Dùng máng tôn có kích thước rộng 50cm, dài 70 cm; cao 2 – 3 cm, sử dụng cho 50 – 60 con/khay. Máng uống: Giai đoạn 1 – 2 tuần tuổi sử dụng máng uống tròn loại 2 lít. Giai đoạn 3 – 12 tuần tuổi sử dụng máng uống tròn loại 5 lít; dùng cho 20 – 30 con 1 máng. Đảm bảo cung cấp 0,3 – 0,5 lít nước mỗi con 1 ngày; đảm bảo cung cấp đủ nước sạch cho ngan.
Có thể dùng hệ thống lò sưởi hoặc bóng điện đảm bảo cung cấp nhiệt cho đàn Ngan con. Dùng bóng điện 75W 1 quây (60-70 ngan). Mùa đông 2 bóng 1 quây, ở nhiều nơi không có điện dùng bếp than lò ủ trấu v.v… Cần hết sức chú ý phải có ống thông khí thải của bếp trấu và lò ủ trấu ra ngoài chuồng. Nếu không hàm lượng khí độc cao gây ảnh hưởng tới sức khoẻ đàn ngan.
Dùng cót ép làm quây; chiều cao 0,5m; dài 4,5; sử dụng cho 60 – 70 con 1 quây. Từ ngày thứ 5 tăng dần diện tích quây để cho ngan vận động, ăn uống. Từ cuối tuần thứ 3, đầu tuần thứ 4 trở đi bỏ quây để cho ngan đen vận động; ăn uống được thoải mái. Rèm che cho chuồng ngan đen: Dùng vải bạt, cót ép, phên liếp che quanh chuồng nuôi ngan đen con để giữ nhiệt và tránh gió lùa.
Chất độn chuồng phải đảm bảo khô; sạch, không ẩm mốc sử dụng phôi bào, trấu. Nếu không có dùng cỏ rơm khô băm nhỏ. Bà con phun thuốc sát trùng bằng formol 2%. Chất độn chuồng nuôi ngan đen phải thay thường xuyên.
Sân chơi: Cần có sân, hoặc vườn với mương nước sạch cho ngan đen vận động và tắm. Từ giữa tuần thứ 3 trở đi. Hàng ngày rửa thay mương nước 2 lần đảm bảo ngan đen luôn được tắm nước sạch.
Chọn ngan đen nở đúng ngày (từ ngày 34 và 35) khoẻ mạnh nhanh nhẹn. Lông bông; mắt sáng, bụng gọn, chân mập, có màu lông tơ đặc trưng của giống.
Tuỳ thuộc vào điều kiện chăn nuôi, mùa vụ và khí hậu mà quyết định mật độ chuồng nuôi. Mật độ vừa phải thì ngan sinh trưởng và phát triển tốt và hạn chế được sự lây nhiễm bệnh tật. Từ 0 – 4 tuần tuổi: 15 – 20 con trên m2 nền chuồng. Từ 9 – 12 tuần tuổi: 5 – 7 con trên m2. Nền chuồng cộng với diện tích sân chơi bằng 2 lần diện tích nền chuồng.
Ngan đen không tự nhiên điều chỉnh được thân nhiệt trong 2 tuần đầu mới xuống chuồng. Do vậy cần được đảm bảo được nhiệt độ cho ngan đen. Nếu nhiệt độ không thích hợp thì tỷ lệ nuôi sống; khả năng sing trưởng bị ảnh hưởng, ngan đen dễ mắc bệnh về đường hô hấp, tiêu hoá.
Khi đủ ấm ngan đen nằm rải đều trong quây; khi thiếu nhiệt ngan đen nằm chồng lên nhau sát vào nguồn nhiệt. Nếu thừa nhiệt ngan đen nằm tản ra nguồn nhiệt nhào nhác khát nước. Ngan đen con cần chiếu sáng 24 trong ngày, ban ngày lợi dụng ánh sáng tự nhiên đảm bảo cường độ chiếu sáng 3W 1 m2 nền chuồng.
Phải bảo đảm được thức ăn luôn mới, thơm; không bị mốc mọt. Thức ăn cần phải cân đối về thành phần dinh dưỡng để đáp ứng đủ về nhu cầu sinh trưởng và phát triển của ngan đen. Trong từng giai đoạn, sử dụng nhiều loại nguyên liệu và thức ăn bổ sung động vật, thực vật, premix khoáng và vitamin.
Với mục đích của người chăn nuôi là ngan lớn nhanh. Nên lượng thức ăn đảm bảo thoả mãn được nhu cầu của ngan. Như vậy không có nghĩa là cứ cho ăn tự do ở mức lúc nào trong máng cũng có thức ăn. Khi thức ăn sẽ bị ôi thiu; ẩm mốc, thức ăn của ngan giảm đi gây ảnh hưởng tới sinh trưởng, thậm chí gây bệnh cho ngan. Để ngan ăn được nhiều; hiệu quả chuyển hoá thức ăn tốt cần cho ăn như sau: Cho ngan đen ăn theo bữa, hết thức ăn mới cho ăn tiếp để cám thường xuyên mới. Mùi thơm của cám sẽ kích thích được ngan ăn nhiều; đồng thời tránh cho ngan mổ cắn nhau.
Từ 5 – 12 tuần tuổi có thể cho ngan ăn thêm rau xanh. Để có căn cứ cho các nhà sản xuất lập kế hoạch chuẩn bị thức ăn nuôi ngan.
Cần thực hiện như kiểm tra khối lượng đến 12 tuần tuổi. Ngan đen mái đạt 2,15 – 2,2kg và ngan đen trống đạt 3,1 – 3,5 kg. Vệ sinh chuồng nuôi hàng ngày phải vệ sinh máng uống, máng ăn sạch sẽ. Thay chất độn chuồng; thay nước sạch cho ngan uống và tắm. Từ tuần thứ 5 đến tuần thứ 7 ngan đen mọc lông vai. Lông cánh dẫn đến bệnh mổ cắn lông do thiếu dinh dưỡng, rau xanh; nuôi chật, độ ẩm cao.
Do đó, cần chú ý chăm sóc nuôi dưỡng chu đáo để tránh hiện tượng này. Chú ý cho ngan đen vận động để tránh liệt chân. Hàng ngày quan sát theo dõi đàn ngan. Khi phát hiện cần cách ly kịp thời những con ốm, phòng và trị kịp thời cho toàn đàn ngan. Từ tuần thứ 12 cánh ngan mọc dài; ngan đen có thể bay cần xén cánh cho ngan mái. Tiêm phòng vaccin dịch tả vịt lần 1 cho đàn ngan.
Ngan R71 là dòng ngan Pháp có tính thích nghi cao, dễ nuôi, ít bệnh, trọng lượng lớn, thịt ngon và tỉ lệ thịt cao hơn so với ngan nội địa. Tuy nhiên, nếu không có cách nuôi, chăm sóc
Hiện nay có ngan R31, R51, R71 & CR50 có nguồn gốc từ cộng hoà Pháp. Ngan R31 : được nhập về Việt Nam năm 1992, ngan có màu lông: Dòng ông có màu lông đen trắng, cổ trắng, mỏ và chân xám, dòng bà màu lông trắng có đốm đầu, mỏ và chân vàng nhạt, ngan bố mẹ và thương phẩm màu lông lang trắng đen (hoa mơ), ngan có tuổi đẻ là 26 - 28 tuần tuổi, năng suất trứng từ 160 - 180 quả/mái/năm, ngan thương phẩm đạt 4,8 – 5,1 kg/con đực ở 12 tuần tuổi, 2,6 – 2,75 kg/con mái ở 10 tuần tuổi, tiêu tốn thức ăn 2,8 – 2,9 kg TĂ/kg tăng trọng.
Giai đoạn ngan 1 - 12 tuần tuổi có cường độ sinh trưởng rất cao nhưng cơ quan tiêu hóa lại phát triển chưa hoàn thiện, các enzym tiêu hóa tiết ra còn ít và hoạt tính chưa cao. Người nuôi cần chú ý đảm bảo cung cấp đủ nước uống và nhu cầu các chất dinh dưỡng.
Ngan con thường có mức độ nhạy cảm lớn đối với việc mất nước, do hệ thống thận của chúng chưa phát triển hoàn chỉnh. Vì vậy, việc cung cấp nước đầy đủ cho ngan ngay từ khi chúng mới nở ra rất quan trọng, đặc biệt là việc đảm bảo chúng uống đủ nước và loại bỏ chất lợi tiểu trong giai đoạn từ khi mới sinh đến khi chúng 18 ngày tuổi.
Ngan pháp là một loại gia cầm, nhưng ngan được xếp vào nhóm thuỷ cầm, do vậy trong đời sống của chúng không thể thiếu nước. Ngan, vịt nói chung đeùe có sức đề kháng tốt hơn gà, đặc điểm nổi bật là gà thích ngủ ở những nơi cao ráo, còn ngan, vịt… lại có thể sống ở nơi có điều kiện ẩm thấp mà ít mắc bệnh hơn nếu đieuè kiện sống đó là gà.